Tổng bí thư Nông Đức Mạnh vi phạm nghiêm trọng những quy chế thông thường trong ngoại giao quốc tế

Tháng Bảy 15, 2010

Tổng bí thư đảng CSVN Nông Đức Mạnh vừa chính thức viếng thăm LB Nga và ký kết 3 văn bản hợp tác giữa lãnh đạo Tập đoàn Dầu khí VN và Tập đoàn Dầu khí Hải ngoại Zarubezhneft.

Ngoài ra, ông còn thỏa thuận với Nga về việc 2 nước đẩy mạnh quan hệ thương mại, kỹ thuật-quân sự, an ninh-quốc phòng, văn hóa-giáo dục…

Liệu hành động đó của ông Nông Đức Mạnh có đúng với thẩm quyền của một Tổng bí thư Đảng hay không? Thanh Quang tìm hiểu vấn đề này qua cuộc trao đổi với ông Nguyễn Minh Cần, nhà báo tự do tại Mascơva và từng là Phó Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Hà Nội.

Trên quyền Chủ tịch nước

Thanh Quang: Thưa ông Nguyễn Minh Cần, theo nhận xét của ông thì ông Nông Đức Mạnh, với tư cách là lãnh tụ đảng CSVN, có quyền ký kết những văn kiện liên quan quyền hạn của nhà nước như vậy không ?

Ô. Nguyễn Minh Cần: Thưa anh, đó là cách thực hành từ thời Liên bang Xô-Viết, tức lãnh tụ đảng khi ra nước ngoài có quyền thay mặt cho nhà nước để ký kết điều này, điều khác. Bây giờ VN đã bước vào thế kỷ 21 rồi, bước vào thời đại mà thế giới đã thay đổi, qua đó, nguyên thủ quốc gia có quyền hạn tối cao mà nhân dân giao cho. Ông Tổng bí thư không có quyền thay mặt cho cơ quan nhà nước.

Bây giờ VN đã bước vào thế kỷ 21 rồi, nguyên thủ quốc gia có quyền hạn tối cao mà nhân dân giao cho. Ông Tổng bí thư không có quyền thay mặt cho cơ quan nhà nước. Điều này trái với nguyên tắc ngoại giao trên thế giới.

Ô. Nguyễn Minh Cần

Theo tôi, đó là một sự vi phạm nghiêm trọng những quy chế thông thường trong ngoại giao quốc tế. Tôi thấy ông Nông Đức Mạnh bắt chước thời kỳ Liên bang Xô-Viết, thời kỳ mà những lãnh tụ đảng như Brezhnev có thể thay mặt cả nhà nước để ký kết điều này điều nọ. Điều này đã quá ư lỗi thời và trái với nguyên tắc ngoại giao trên thế giới.

Thanh Quang: Theo nguyên tắc thì những văn bản mà Tổng bí thư Nông Đức Mạnh ký kết tại Nga như vừa nói phải được Quốc Hội VN thông qua. Thưa ông, nếu thông qua những thỏa thuận đó thì Quốc Hội hành động như vậy có đúng luật pháp VN không?

Ô. Nguyễn Minh Cần: Theo tôi, nếu các đại biểu Quốc Hội VN có tinh thần trách nhiệm rất cao, tự ý thức được rằng mình là đại biểu của nhân dân, và Quốc Hội là cơ quan quyền lực tối cao của nhân dân, thì Quốc Hội có thể không chấp nhận chữ ký của ông Tổng bí thư. Vì ông không phải là nguyên thủ quốc gia. Mà nguyên thủ quốc gia phải là Chủ tịch nước. Theo tôi, nếu là một Quốc Hội có ý thức trách nhiệm đầy đủ đối với nhân dân thì không thể nào chấp nhận điều đó.

Nhưng hành động của ông ta (Nông Đức Mạnh) như vậy quả là hành động lấn lướt trên quyền của Chủ tịch nước, tức trên quyền của nguyên thủ quốc gia.

Ô. Nguyễn Minh Cần

Thanh Quang: Thưa, ông có cho rằng vai trò của ông Nông Đức Mạnh trong những chuyến công du hải ngoại  hiện ngày một tỏ ra lấn lướt chủ tịch nước và thủ tướng hay không ?

Ô. Nguyễn Minh Cần: Về vấn đề này, tôi không biết ý thức của ông Nông Đức Mạnh như thế nào. Nhưng hành động của ông ta như vậy quả là hành động lấn lướt trên quyền của Chủ tịch nước, tức trên quyền của nguyên thủ quốc gia.

Thanh Quang: Xin cảm ơn nhà báo tự do Nguyễn Minh Cần rất nhiều.

14/7/2010

Thanh Quang, phóng viên RFA


Bạn đọc viết: Tâm tình sau cái chết của giáo dân Cồn Dầu

Tháng Bảy 15, 2010

Sau cái chết của anh Tôma Nguyễn Năm ngày 03.7.2010 đã gây nên sự sợ hãi cho giáo dân Cồn Dầu và gây nên sự thương tiếc, căm hờn cho nhiều người trong nước Việt Nam và tại hải ngoại (Nguyên nhân anh bị chết đã được nhiều website thông tin, tôi xin được phép không ghi lại thêm trong bài này).

Anh Tôma Nguyễn Năm đã bị chết vì  bị lùng bắt, đánh đập, tra tấn dưới sự tàn bạo của công an, chính quyền Đà Nẵng. Nhìn những vết thương dã man trên thân xác anh, nhìn cái chết đau đớn của anh, giáo dân Cồn Dầu đã sợ hãi trước những con người hầu như trở thành loài thú dữ.

Anh đã ra đi trong đau đớn, anh được tiễn đưa với đội quân công an để ngăn chận những người thân quen đến tiễn anh đi về nơi an nghĩ cuối cùng.

Anh ra đi không có những ngọn nến thắp lên để giải nỗi oan ức, để nói lên sự bất công, dối trá trên miền đất Cồn Dầu. Anh ra đi bên những tiếng khóc thương nhớ, căm tức của vợ con. Anh ra đi bên dối gian, với lọc lừa biến hóa hành động giết người của công an và chính quyền Đà Nẵng thành vô tội. Đau đớn hơn thế là những vị đại diện tôn giáo, chủ chăn của giáo phận cũng im lặng cúi đầu chấp nhận lọc lừa của chính quyền Đà Nẵng, không dám nói lên sự thật về cái chết của một giáo dân trong giáo phận.

Vai trò của chủ chăn đóng khung trong phạm vi của nhà thờ ? Nhân chứng Đức Kitô chỉ ở trong khuôn viên nhà thờ ? Tiếng chuông nhà thờ sáng chiều mời gọi giáo dân đi vô nhà thờ để nhìn chủ chăn làm « nhân chứng » trên bàn thờ, để nghe chủ chăn « rao giảng » điều mà các vị cho là « theo chân Chúa Kitô » giữa nhà thờ?

Nếu thật là vậy thì các vị đã biến ngôi nhà thờ thành một « sân khấu » để  diễn kịch  hay để  trình diễn thời trang !

Người giáo dân hôm nay đã nhận thấy vai trò của mình khi các vị chủ chăn đã tránh né và từ chối làm chứng cho Đức Kitô « Ta là Đường là sự Thật và là sự Sống ». Giáo dân đã can đảm đi với Chúa Giêsu trong cuộc đời dù phải hy sinh. Sự hy sinh đó dù là cái chết như anh Tôma Nguyễn Năm, một giáo dân Cồn Dầu, Đà Nẵng.

Sự sợ hãi của giáo dân cũng đã lột trần được bộ mặt gian ác của chính quyền Đà Nẵng dưới chế độ cọng sản. Sự sợ hãi của giáo dân cũng nói lên nỗi buồn khi giáo quyền, chủ chăn đã bỏ rơi giáo dân dưới chiêu bài khẩu biện « đối thoại » để tránh né mọi sự hăm dọa, đàn áp của bạo lực đang dày xéo giáo dân.

Tình trạng hiện nay của giáo dân Việt Nam cần đến sự hiệp thông của mọi người để đối diện với bạo lực gian ác, để lên tiếng nói cho Sư Thật, Công Lý, Nhân Quyền trên quê hương. Sự hiệp thông bằng lời cầu nguyện, bằng những lá thư, bẳng những đêm thắp nến…

Nhiều người có cùng một khát vọng, ước mong là tất cả linh mục, cộng đoàn người Việt khắp nơi trên thế giới cùng song hành với giáo dân Việt Nam. Sự song hành đó thể hiện qua những thánh lễ, những buổi cầu nguyện thắp nến :

–  Để cùng dựng lại cây THÁNH GIÁ với giáo dân Thái Hà, Tam Tòa, Đồng Chiêm…và nhiều nơi khác trên quê hương Việt Nam

–  Để nói lên sự thật, chia sẻ trước những cái chết cô đơn, lạnh lẽo, oan ức của những người như anh Tôma Nguyễn Năm tại giáo xứ Cồn Dầu.

–  Để cùng đem lại niềm tin, can đảm cho người giáo dân khi các chủ chăn tại Việt Nam đành đoạn bỏ rơi giáo dân, nịnh bợ để có chút quyền lợi theo « thói đời ».

–  Và cũng để thức tỉnh lương tâm các vị chủ chăn cùng đồng hành với giáo dân đi làm Nhân Chứng Đức Kitô chớ không tìm đường để đi trước, đi sau bỏ giáo dân đi một mình.

Sự song hành với giáo dân Việt Nam trước bạo lực của chính quyền cọng sản không phải là « cùng nhau Đi Hồng Binh », không phải là đi « đối thoại với đầu gối ».

Sự song hành với giáo dân Việt Nam là song hành can đảm đi trên con đường Sự Thật, Công Lý.

Ngày 14 tháng 7 năm 2010

Philipphê Minh, Võ.


Chức Thánh trong hàng giáo dân

Tháng Bảy 15, 2010

Trong Năm Thánh đặc biệt dành riêng để cầu nguyện cho Linh Mục, chúng ta đã được học, được xem nhiều bài viết về Chức Năng ”Tư-Tế, Ngôn-Sứ, Quân-Vương” của Hàng Giáo Phẩm. Vì thế, trong bài này, tôi chỉ trích dẫn Kinh Thánh, Giáo Lý Công Giáo nói về giáo dân vì họ là đại đa số trong Hội Thánh. Nói đến Hội Thánh là nói đến Đức Tin vì Đức Tin là linh hồn của Hội Thánh.

Kinh ”CREDO: TÔI TIN” mà Giáo Hội Công Giáo Việt Nam dịch là ”Kinh Tin Kính’‘ có ý nghĩa thật súc tích bởi vì ”tin” mà chẳng ”kính” là con số ”không” như lời dạy của Chúa Giê-su và của Phao-lô… Gia-cô-bê cũng khẳng định: ”Đức tin không có hành động là đức tin chết.” Tin mà không có lòng ”kính mến” là chẳng tin gì cả! Trong mười hai điều tin, có bốn ”đặc tính bất khả phân ly” sau đây buộc người Công Giáo phải tuyên xưng về Giáo Hội, đó là: ”duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.*” Bốn đặc tính này chứng minh điều sau đây:

Người viết bài này cũng có chức thánh vì nó cũng là Giáo Hội, là Ki-tô hữu, là Ki-tô khác, tức là giáo dân cũng được mặc lấy Chúa Ki-tô để cùng sinh, sống, chịu khổ nạn, chịu tử nạn, chịu chôn với tội lỗi của mình, được phục sinh, chiến thắng tội lỗi mà hiển trị với Ngài như tiếng nhạc mở đầu chương trình phát thanh Đài Vatican: ”Christus vincit! Christus regnat! Christus, Christus imperat!- Ki-tô chiến thắng! Ki-tô ngự trị! Ki-tô, Ki-tô quản trị!”

Theo lời đề nghị của nhiều người, tôi xin mạo muội nêu lên nguồn gốc và ý nghĩa của các chữ ”tư-tế, ngôn-sứ, quân-vương” như sau:

Chữ Hán-Việt ”tư-tế, ngôn-sứ, quân-vương”, được dùng trong Giáo Hội, có nghĩa là ”thánh hiến mình, được sai đi rao giảng Lời, làm vua.” Hai chữ ”quân, vương” có cùng một ý nghĩa, tức là ”điệp ý”. Còn tại sao gọi là ”tư-tế”? Chữ ”tư” có nghĩa là ”riêng”, trái nghĩa với ”công”. Chúng ta còn nhớ bài ca nhập Lễ có câu: ”Con sẽ bước lên Bàn Thánh, tế lễ mình, làm của lễ hy sinh.” Chữ ”tế lễ mình” dịch sang tiếng Pháp, Anh là ”se sacrifier, sacrifice oneself”, gốc Latinh là ”se sacrificare”.  Tiếp đầu ngữ ”sacri” là cách biến âm của chữ ”sacer” có nghĩa là ”thánh”.

Chữ ”tư-tế” còn dịch từ chữ Latinh ”sacerdos, sacerdotis”, có nghĩa là ”linh mục, của linh mục”. Chữ này có hai thành phần: ”sacer” và ”dos, dotis” do động từ Latinh là ” dare, do, das, dedi, datum: cho, tặng, làm*”, sang tiếng Pháp thành ”dot: hồi môn” là ”của riêng” mà người đàn bà mang theo để về nhà chồng. Khi bà ta qua đời hay đi tu thì của này được đưa vào tu viện. Chữ ”sacrement” hay còn gọi là ”acte sacramental” là ”phép thánh hóa”, là nghi thức thánh hiến người, bánh-rượu Lễ là đối tượng của phép này. Vì thế, khi lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy (Rửa Tội), tôi đã được ”cho” Dầu Thánh, được dâng ”riêng cho” Thiên Chúa để mặc lấy Đấng Thánh được Chúa Cha xức Dầu và sai đi, để tôi trở thành con của Thiên Chúa, con của Giáo Hội và cũng là Giáo Hội, tức là ”Hiền Thê” của Giê-su, là bạn đời của Ngài, không phải là ”trăm năm”, mà đến ngày sau vĩnh hằng! Là Hiền Thê của Ki-tô nên tôi có của ”Hồi Môn”, có Chức Thánh Tư-Tế trong hàng giáo dân*, có chức Ngôn Sứ cho người ngoài Đạo, cho người trong Đạo nói chung.

Tôi xin trích dẫn Lời Chúa trong Kinh Thánh và Sách Giáo Lý để chứng minh điều mà tôi vẫn luôn xác tín như vừa rồi, để nhiều giáo dân đừng cho rằng đó là điều không tưởng (utopie), để họ khỏi lên án giáo dân ”quèn” như tôi là ”kẻ ăn mày đòi xôi gấc”, dám lộng ngôn, phạm thượng, và để họ cũng được Chân Lý giải thoát khỏi mặc cảm tự ti rằng họ không có Chức Thánh! Nếu không có Chức Thánh thì là chức gì? Không lẽ là ”chức ma, chức quỷ”?  Rõ ràng là không vì Phê-rô đã khẳng định như sau: ”Ngõ hầu, nhờ đó, anh chị em được thông phần bản tính Thiên Chúa…” (2 Phê-rô 1,4) Sách Giáo Lý, số 823 ghi: ”Như vậy, Giáo Hội là ”Dân Thánh của Chúa”, nên các thành viên của Giáo Hội được gọi là ”các thánh”. ”Dân Thiên Chúa thực hiện ”chức quân vương” của mình bằng cách sống phù hợp với ơn gọi này là phục vụ với Chúa Ki-tô.” (số 786) ”Phép Rửa Tội là ơn đẹp nhất, huy hoàng nhất trong các Thiên Ân (…) Chúng ta gọi phép này là ơn ban ân sủng, sự xức dầu, sự soi sáng, y phục không hư nát, sự tắm bằng việc tái sinh, ấn tín, và tất cả những gì quý báu nhất. (số 1216. Tôi dịch có hơi khác bản tiếng Việt của Tu-Sĩ Xa-lê-diên.)

Vâng, dù không được ”đưa vào hàng” như GM, LM, PT, nhưng, khi được rửa tội, dù ở trong hàng giáo dân, tôi cũng đón nhận Thánh Linh để trở thành quý tử của Chúa, từ một em bé nô lệ nguyên tội (péché originel), được nâng lên (relevé) hàng Ân-Tử, được xếp (ordonné: classifié) vào Hoàng Tộc Giê-su (Quân Vương), được mở cửa vào sự sống trong Chúa Thánh Thần, vào các Bí Tích khác vì Phép Thánh Thanh Tẩy là nền tảng của đời sống Ki-tô hữu, vì tất cả các Bí Tích khác đều quy về (ordonnés à) Phép Thánh Thanh Tẩy. Rõ ràng Phê-rô đã viết như sau: ”Còn anh-chị-em, dòng giống được tuyển chọn, hàng tư-tế quân-vương, một nước thánh thiện, một dân tộc được sở hữu: possédé.” (I Phê-rô 2,9). Còn thánh Léon Cả (serm.4,1) nói : ”Dấu Thập Giá làm cho những người được tái sinh trở thành quân vương, việc xức Dầu của Thánh Linh thánh hiến họ thành linh-mục (prêtres) để, ngoại trừ việc phục vụ đặc biệt là thừa tác vụ của chúng tôi, tất cả các Ki-tô hữu có tinh thần và sử dụng lý trí của mình, nhận ra mình là dòng giống quân vương này và là người dự phần vào chức năng tư- tế…Và còn gì mang tính tư tế cho bằng hiến dâng cho Thiên Chúa lòng trong sạch và dâng lên bàn thờ lòng mình hy lễ không tỳ vết của lòng đạo đức?” (số 786)

Trong phần nói về ba chức thánh của giáo dân, số 897- 945, Sách Giáo Lý có ghi nhiều điểm nổi bật của họ, đặc biệt ở số 899 như sau : ”Các tín hữu giáo dân nằm ở hàng đầu hết trong sự sống của Giáo Hội; nhờ họ, Giáo Hội là nguyên lý sống động của Giáo Hội. Họ là Giáo Hội.” Số 904 ghi: ”Chúa Ki-tô hoàn thành chức năng ngôn sứ của mình không chỉ qua hàng giáo phẩm (hiérarchie) (…), mà còn qua giáo dân…” Cụ thể hơn nữa là các phần Giáo Lý sau đây:

Về Tư-Tế

Khi gia nhập Dân Thiên Chúa nhờ đức tin và Phép Rửa Tội, chúng ta dự phần vào ơn gọi độc nhất của Dân Tộc này: ơn gọi tư-tế: Chúa Ki-tô, thượng tế được chọn giữa loài người, biến Dân Tộc mới này thành vương quốc, những linh-mục cho Thiên Chúa, Cha Ngài. ĐÚNG THẾ, những người đã được rửa tội nhờ việc tái sinh và việc xức dầu của Thánh-Linh, được thánh hiến để làm nơi cư ngụ linh thiêng và hàng tư-tế thánh thiện.

Về Ngôn-Sứ

Dân Thánh của Thiên Chúa cũng dự phần vào chức năng Ngôn-Sứ của Chúa Ki-tô. Nhất là họ ngôn-sứ nhờ cảm thức siêu nhiên của đức tin vốn là tri năng của toàn Dân Ngài, giáo dân cũng như hàng giáo phẩm khi Dân này kiên trì gắn bó với đức tin đã được truyền lại cho các thánh một lần là dứt khoát và khi họ đào sâu thêm sự hiểu biết về đức tin và trở thành chứng nhân cho Chúa Ki-tô nơi trần thế này.

Về Quân-Vương

Sau cùng, Dân Thiên Chúa dự phần vào chức năng quân-vương của Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô sử dụng vương quyền của Ngài bằng cách lôi kéo mọi người đến với Ngài nhờ sự chết và phục sinh của Ngài. Chúa Ki-tô, Vua và Chúa vũ trụ, đã trở thành đầy tớ của mọi người, Ngài đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và để hiến mạng sống của Ngài làm giá chuộc cho nhiều người. (Mt 20,28). Đối với các Ki-tô hữu, ”ngự trị là phục vụ Ngài”, đặc biệt trong người nghèo và người đau khổ, trong những người này, Giáo Hội nhận ra hình ảnh của Đấng Sáng Lập ra mình.

Kinh Thánh và Sách Giáo Lý dạy như trên. Vậy thì có gì khác biệt giữa Hàng Giáo Phẩm và giáo dân không? Số 872 ghi: ”Do được tái sinh trong Chúa Ki-tô, giữa tất cả tín hữu của Chúa Ki-tô, có sự bình đẳng thật sự về phẩm giá và hoạt động, chiếu theo sự bình đẳng này, mọi người đều cộng tác vào việc xây dựng Thân Thể Chúa Ki-tô tùy theo điều kiện và chức năng của mỗi người.”

Có sự khác biệt* không có nghĩa là ”hơn, thua” vì Thánh Gioan Kim Khẩu dạy rằng ”nói hơn thua” giữa Hàng Giáo Phẩm và hàng giáo dân là có tội!

Ngày nay, giáo dân không nói ”Tôi đi xem Lễ”, mà có quyền tuyên xưng ”Tôi đi dâng Lễ”. Đời tôi cũng là một Thánh Lễ kéo dài từ Thập Giá ở Can-vê, trước Bàn Thờ, trong gia đình và ngoài xã hội dù tôi là đứa bất xứng, đầy tội lỗi.

Với những tâm tình vừa nêu, con xin các Ngài Mục Tử noi gương Chúa Cứu Thế, ôm chiên vào lòng dù đó là chiên lạc hay là chiên ghẻ lở.

Phan văn Phước

Đức Quốc, Düsseldorf, 19.9.09

Ghi chú:

*Anh em Tin Lành bỏ chữ ”tông truyền” trong Kinh Tin Kính.

*Chữ ”do, did” trong tiếng Anh mượn chữ ”do, dedi” của tiếng Latinh. Ví dụ: ”Could you do me a favo(u)r, please?” Chữ ”date, Datum: ngày, tháng, năm” là quà Ông Trời cho. Chữ ”édition” là xuất bản, tức là cho ra ngoài. (e, ex: ngoài)

*Có nhiều sự khác biệt. Xin nêu vài điểm như sau: Giáo dân đọc Lời Truyền để tin, sống và truyền Đạo; Linh Mục đọc Lời Truyền để dâng Thánh Lễ thì bánh-rượu trở thành Thịt-Máu của Chúa Giê-su. Giáo dân chỉ có thể làm phép rửa tội khi cần kíp.


Vì tôi là linh mục

Tháng Bảy 15, 2010

Theo lịch năm thánh thì ngày 30 tháng 06 kính Thánh Tâm Chúa Giêsu cũng là ngày thánh hóa linh mục.  Nhân thể xin viết đôi điều vụn vặt về chuyện này.

Đề tài Linh mục, cho đến bây giờ vẫn còn lạ lẫm đối với nhiều người, do vậy lâu lâu nó lại được leo lên sân khấu, phim ảnh hay sách vở. Mỗi lần như thế nó gây nhiều ấn tượng, nhiều chú ý, nhiều ồn ào. Trước 30/4/75, nhà văn nữ Lệ Hằng đã viết cuốn tiểu thuyết “Tóc mây” nói về cuộc tình của Tố Kim, cô gái trẻ sinh viên Đà Lạt với Hà Vĩnh Duy, linh mục nhạc sĩ (?).

Tác phẩm này đã tạo nên một cơn lốc dữ dội, lúc bấy giờ gọi là “hiện tượng tóc mây”. Hình như trước hoặc sau đó không lâu nhạc phẩm “Vì tôi là linh mục” cũng ra lò và chuyền làng. Bài hát này đã tạo nên cơn bão cuốn hút luôn linh hồn của các cô gái nhỏ ngây thơ, thậm chí đến “ma sơ” cũng nghêu ngao khi rảnh việc, lúc buồn buồn:

Vì tôi là linh mục

Không mặc chiếc áo dòng

Nên chi đời đau khổ

Nên trót đời lang thang…

Diễn giải tâm sự buồn của một linh mục đã trót dại yêu một tín đồ, nên cởi bỏ chiếc áo dòng mà đi bụi đời?

Từ đó hễ nghe có cuốn truyện nào viết về Linh mục là vội vã đi mua hay mượn về coi cọp, như: “Bão biển” của Chu Văn, “Người mục tử trong sương mù”… Lúc đầu thì đọc ngấu nghiến vì tò mò, nhưng chỉ đọc năm bảy trang là bản thân làm cách mạng, ngáp dài, ngán tận cổ, nuốt không trôi. Bởi vì ngay từ đầu đã ngửi thấy sặc sụa mùi bôi bác và ý đồ đen tối của tác giả trong luồng. Họ chụp lên đầu những Linh mục tội nghiệp ấy cái mũ “phản động” hay cái mũ “đồi trụy”. Cũng chính vì những toan tính bẩn thỉu và lộ liễu ấy mà nó mau chóng bị bỏ rơi vào quên lãng, thậm chí còn phản tác dụng. Thiên hạ ngày càng thương ông Cha hơn.

Xét về nguyên nhân tu trì thiên hạ thường bảo: Trốn việc quan đi ở nhà Chùa, chán đời hay thất tình đi tu, bởi vì “tu là cõi phúc, tình là dây oan”… Các nhà văn, soạn giả khai thác tận tình chủ đề này như: “Hồn bướm mơ tiên. Hay dàn dựng những vở kịch ăn khách như: “Chuyện tình Lan và Điệp”, “Lá sầu riêng” v.v.…nên nhạc sĩ P. D. có bài thơ:

Ngày em đi lấy chồng

Anh nằm cuộn trong chăn

Như con sâu làm tổ

Trong trái vải cô đơn.

Hay thẫn thờ, lang thang, miệng lẩm nhẩm như kẻ mất hồn:

Ôi biết nói gì cuộc tình lớn quá

Cuộc tình lớn quá ôi biết nói gì

Cuộc tình quá lớn…

Sau cú sốc quá đau vì cuộc tình quá lớn, anh chàng lặng lẽ khăn gói, âm thầm vào nhà dòng nào đó tu thân cho đỡ lẻ loi. Ơn Chúa tuôn đổ, một thời gian sau, anh chàng được thụ phong Linh mục. Trong ngày lễ mở tay, cô này dắt con mình tới và nói:

– Con ạ, gọi cha đi con!

Não nuột!

Cha chớp chớp đôi mắt “mơ huyền” nhìn về chốn xa xăm… Bây giờ mỗi lần nhắc lại chuyện này, linh mục mỉm cười nói với bạn bè: “Nếu không bị cô nàng đá lên đá xuống chắc bây giờ đã là bố cu Ti cu Tèo… chứ đâu có làm cha “thiên hạ” như các bạn thấy đó. Chúa chọn con như sét chọn cây tầm thường. Quả ý Ngài nhiệm mầu hết xẩy!”.

Bên đạo ta lý do thất tình đi tu chẳng phải là không có, nhưng rất hiếm vì chú nhóc vào chủng viện hay nhà dòng hồi tóc còn để chỏm. Thật khó mà hiểu được vì sao chú lại đòi đi tu? Cũng dễ hiểu thôi! Chỉ vì thằng nhóc thấy được các “Cụ” đi giầy Tây, ăn bánh Tây, ở nhà Tây. Ra ngoài đường được cả thiên hạ khoanh tay cúi đầu chào:

– Con xin phép lạy cha ạ!

Có những bậc cha mẹ muốn con cái đi tu cốt để con được nhàn hạ, làm sán lạn tông môn. Như lời hiền mẫu nọ nói với cha phó kia trong cuộc họp hằng tháng:

– Đi tu như các Cha, các Dì thế mà sướng, chứ đèo bòng ở ngoài như chúng con khổ lắm cha ạ!

Đôi khi ông bà già đẩy con mình đi tu chỉ thầm mong có ngày thiên hạ gọi mình “ông cố, bà cố” cho le lói đời với người ta. Ấy vậy mà khi chú nhóc giở chứng muốn từ giã đời tu, ông “chuẩn cố” mắng như ri: “Thà làm con chó nhà Đức Chúa Trời còn hơn làm vương làm tướng ngoài thế gian”.

Những lý do lấn cấn ban đầu, dần theo năm tháng được mài giũa, đẽo gọt, tinh luyện kết tinh thành lý tưởng phục vụ thiên Chúa và tha nhân.

Trong thánh lễ mở tay của cha mới, các vị giảng thuyết thường hùng hổ đến sùi cả bọt mép đề cao vẻ đẹp cao quí của thiên chức Linh mục. Chẳng mấy ai dám cả gan bàn thẳng vào thập tự giá của chức vị này. Làm cho cha mới chỉ thấy bông hồng phía trước mặt mà quên cảnh giác gai nhọn của nó.

Nhưng… tiệc rượu chóng tàn, ngày vui qua mau, vinh quang thoáng chốc. Cuộc sống đời thường phải đối đầu với chướng ngại với thập giá. Các bậc lão thành thường đề cập đến ảnh hưởng của Linh mục như sau:

Linh mục đạo đức thì giáo đân loàng xoàng

Linh mục loàng xoàng thì giáo dân nguội lạnh

Linh mục nguôi lạnh thì giáo dân xấu xa

Linh mục xấu xa thì giáo dân biến thành quỉ dữ.

Giáo dân luôn bị tụt một bậc so với Linh mục. Cũng dễ hiểu, bởi giáo dân là đệ tử, Linh mục là sư phụ về đàng thiêng liêng. Linh mục là người hướng dẫn. Hướng dẫn sai lầm, lời Chúa dạy như sau: Mù dẫn mù cả hai sẽ rơi xuống hố. Cùng với ý tưởng trên, ta cùng nhau suy nghĩ bài giảng nhân ngày mở tay của cha mới. Đại khái như sau:

Hãy cột một chiếc nút để se kết hai đầu vì Linh mục là trung gian se kết con người với Thiên Chúa.

Hãy xây cầu nối liền hai bờ xa cách vì Linh mục nối liền Đất với Trời. .

Nói cách khác Linh mục là trung gian nối liền giữa Nhân loại và đấng Tối cao. Vì vậy Linh mục một bên phải nắm chặt Thiên Chúa, bên kia nắm chặt bàn tay con người. Đem bàn tay con người đặt vào lòng bàn tay Thiên Chúa, cho tình yêu đơm bông kết trái và ơn tha thứ được tuôn chảy ra. Phải cố gắng giữ vững thế tay trong tay vì đó là điều mọi người mong đợi nơi các Linh mục. Cái thế tay trong tay Linh mục không có con đường khác để chọn bởi lẽ buông một trong hai Linh mục sẽ không chu toàn chức vụ của mình .

Muốn chu toàn bổn phận Linh mục phải gắn bó với Thiên Chúa. Có gắn bó với Thiên Chúa Linh mục mới đem Chúa đến với mọi người. Muốn đem Chúa đến cho mọi người, bản thân linh mục phải có Chúa trước đã: Có Chúa trong tâm hồn và có Chúa ngay trong cuộc đời vì Linh mục không thể cho người khác cái mình không có. Linh mục phải chọn Đức Kitô là điểm khởi đầu và kết thúc của cuộc đời. Trái đất xoay quanh mặt trời như thế nào thì Linh mục cũng xoay quanh Đức Kitô như vậy. Được vậy Linh mục có thể hãnh diện nói lên như thánh Phaolô: “Tôi sống không còn là tôi sống, mà chính Đức Kitô sống trong tôi”.

Gắn bó với Thiên Chúa, đồng thời cũng gắn bó cảm thông với con người  Phải luôn luôn giữ cho được thế tay trong tay, lưng liền lưng, ý liền ý.

Tội lớn nhất của Linh mục không phải trót sa ngã, trót vấp phạm, bởi Thiên Chúa đã không chọn các Thiên thần mà chọn những con người tầm thường, yếu đuối làm Linh mục của Ngài. Tội lớn nhất của Linh mục là bỏ rơi một trong hai bàn tay hoặc thờ ơ với anh em đồng loại, hoặc quây lưng lại chống Thiên Chúa. Lúc này Linh mục chỉ là nhịp cầu đã gãy, nút dây đã đứt. Liên lạc đã bị cắt, giao thông gián đoạn. Kẻ thù reo vui.

Từ đó ta không còn ngạc nhiên khi thấy người ta cố ý bôi nhọ, bêu riếu các Linh mục. Bởi đó là mưu thâm chước độc của “địch”. Tuy nhiên không phải chỉ có “địch” mới bôi nhọ, bêu riếu. Hãy coi chừng! Đôi khi chính con cái ngay trong nhà cũng bạo miệng chỉ trích Linh mục đầy ác ý. Họ hỏi rằng: Linh mục đã làm gì cho tôi?

Nhưng chẳng bao giờ dám quay lại nhìn thẳng vào lương tâm mình và tự hỏi:

– Tôi đã làm gì cho Linh mục?

Hễ thấy Linh mục có chút gì sai lỗi, lập tức xì xầm bàn tán, mím môi thổi phồng bong bóng. Họ đâu ngờ rằng rất nhiều khi chính giáo dân đã làm hư Linh mục. Sau đây chỉ xin trình bày hai trường hợp, hai thái cực nho nhỏ mà giáo dân đã xô Linh mục vào chân tường, tới chỗ bất ổn hay làm hư Linh mục.

Trường hợp 1: Thái độ quá trọng kính, trước mặt tỏ vẻ khúm núm… Coi LM như người thông biết mọi sự và chẳng hề sai lỗi bao giờ. Mới ngày nào còn “mày tao mi tớ” với nhau. Khi đã thụ phong LM, từ cục đất cất lên ông Bụt thì lập tức được gọi là Cha, là Cụ, là Cố… khiến cho thiên hạ, kể cả những người thân yêu nhất cũng phải “Kính nhi viễn chi”.

Trọng kính LM là điều quí. Nhưng cử chỉ khúm núm là điều nguy hiểm vì nó dễ làm cho LM quên đi mình là cục đất, mình chỉ là một dụng cụ tầm thường trong tay Chúa. Đôi khi ảo tưởng mình là ông Bụt thật, là cái rún của vũ trụ, rồi từ đó trở thành quan liêu, độc tài, độc đoán và… “mất dạy”!

Đọc tới đây hẳn có người sẽ thì thầm: thằng nào con nào lếu láo, dám cả gan nói mấy cố mất dạy, thiệt hết thuốc chữa! Xin thưa: Mất dạy ở đây không phải là vô phép hỗn hào… mà đơn giản chỉ là không còn được dạy bảo nữa mà thôi. Hiểu như thế, suy nghĩ thêm chút nữa ta sẽ phần nào nhận ra sự thật.

– Con ơi ! kể từ ngày hôm nay, nếu con không ý tứ thì con sẽ trở nên người mất dạy, bởi vì với thiên chức LM con sẽ không còn ai dạy bảo nữa. Đó là lời tâm tình của bà cố vừa có con đỗ Cụ.

Xuất phát từ quan niệm cho rằng: LM là người thông suốt mọi sự cộng với bối cảnh xã hội, người LM phải kiêm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau. Từ một người chuyên rao giảng lời Chúa, cử hành các bí tích, nay phải đứng ra hòa giải các vụ tranh chấp, kiện tụng. Cố vấn hôn nhân gia đình, kỹ sư kiêm đốc công các công trình xây dựng, quân sư quạt mo về cung cách làm ăn. Ấy là chưa nói LM còn phải đảm nhận những chức vụ phần đời như: Thành viên tổ chức này, tổ chức nọ, đứng đầu hợp tác xã, chủ máy cày máy xay v.v…

Với những công việc như thế, LM sẽ không còn thời gian để tâm tình cầu nguyện, gắn bó với Thiên Chúa nữa. Rốt cuộc trở nên người mất dạy dưới cái nhìn xót xa của Chúa. Tiếp đến do những thành công gặt hái được liên tiếp, và nhất là do những trọng kính thái quá người khác dành cho mình, Lm cứ ngỡ mình là bậc thầy lỗi lạc, trỗi vượt lên trên mọi người, ý kiến của mình luôn luôn đúng, dần dần gạt bỏ mọi ý kiến đóng góp và những đề nghị xây dựng khác với đường lối chủ trương cúa mình. Từ đó dễ rơi vào tình trạng độc tài, độc đoán. Phải chăng Lm đã tự làm cho mình trở nên “mất dạy”?

Trường hợp 2: Thái độ vô ơn và nghiêm khắc, thiếu cảm thông của giáo dân, đôi khi làm cho Lm buồn đau… âm thầm rơi nước mắt. Cách cư xử thông thường của người đắc nhân tâm: Nghiêm khắc với bản thân mà khoan dung với người khác. Thế nhưng, thiên hạ thường hành động ngược lại: Nghiêm khắc với người khác mà khoan dung với chính bản thân mình. Quan niệm này cũng được áp dụng vào mối liên hệ với Lm. Nhân vô thập toàn, đã là con người thì ai cũng có lầm lỗi của mình, kể cả Lm vì Lm cũng mang thân mỏng giòn. Bàn tay còn có ngón ngắn ngón dài, bá nhân bá tánh, chín người mười ý, hay như tục ngữ có câu:

Ở sao cho vừa lòng người. Ở rộng người cười. Ở hẹp người chê.

Cao chê ngỏng, thấp chê lùn. Béo chê béo trục, béo tròn.

Gầy chê xương sống, xương sườn bày ra.

Lm giống như người làm dâu trăm họ, rất khó làm vừa lòng mọi người, nếu cố gắng làm vừa lòng mọi người thì rốt cuộc sẽ chẳng vừa lòng ai. Nói chi, ngay trong gia đình chỉ vỏn vẹn có năm, bảy người cùng chung máu mủ còn chưa vừa lòng nhau, huống chi Lm phải xử sự với hàng trăm hàng ngàn người. Giáo dân thường hay quên mất công ơn Lm đã làm, chỉ nhìn thấy khuyết điểm để lớn tiếng phê bình chỉ trích một cách gắt gao. Kéo nhau lên Tòa Giám mục tố cáo hoặc nộp đơn cho chính quyền kiện tụng linh tinh.

Có những nơi họ đạo nghèo mái tranh vách đất, hoặc còn hoang vu chưa có nhà thờ, Lm về bỏ công sức, huy động tiền bạc, xây dựng: nhà thờ, nhà xứ, trường học v.v… Rồi một ngày Lm già, sức yếu cùng với một vài lẩm cẩm của tuổi già thì người ta bàn tán xì xào, viết thư nặc danh ném vào phòng tố cáo này nọ, chỉ vì sự già nua của Lm.

Tòa Giám mục biết được liền đổi cha đi chỗ khác. Nhận được tin họ mừng ra mặt. Mặt khác họ cử đại diện lên gặp Giám mục để xin Lm ở lại với bộ mặt đầy thểu não. Thế nhưng khi được hỏi:

– Bộ các ông không muốn cha đi hay sao? Họ trả lời:

Cha đi mình chẳng níu kéo, coi sao được. Đời mà! Lời bất tòng tâm!

“Bạc như dân, bất nhân như lính”. Bao lâu Lm còn khỏe mạnh phục vụ cho giáo xứ thì là cha đáng mến đáng trọng. Một khi đau yếu già nua, là gánh nặng, là cái gai cần nhổ đi. Nói như vậy có quá đáng không? Trên đời chuyện gì cũng có, chứng kiến thực tế có những chuyện khiến ta phải đau lòng.

Một cha sở chẳng may bị ung thư qua đời. Thuốc thang mai táng tốn khá nhiều. Tiền túi bỏ ra hết, rốt cùng tồn đọng một món nợ. Sau khi “mồ yên mả lặng”, người ta cãi nhau chí chóe về món nợ này. Giáo xứ, dòng họ không ai nhận trả. Cuối cùng Tòa GM đành ép lòng ép xác nhận vậy!

Thấm thía nhất , thâm sâu tận cõi lòng có lẽ là Nỗi cô đơn của đời Lm.

Một chiều Chúa nhựt đẹp trời. Mọi người ra về. Cửa nhà thờ khép lại. Một mình trong nhà xứ rộng mênh mông. Thưa chuyện với Chúa thì hình như Chúa cũng xa vời. Còn một mình Tôi nhìn tôi trơ vơ trên vách. Nỗi cô đơn sẽ đậm đặc hơn khi Lm đau yếu. Có một cha đã than thở như sau:

Có một ngày mình đau, nhờ chú nhỏ giúp lễ tìm người cạo gió. Nhờ bà này cô kia thì không ổn. Thiên hạ không cho phép, bởi đó là chước ma quỉ. Các bà các cô, hiền thì hiền đôi khi cũng chẳng thua sư tử Hà Đông. Máy móc điện tử hiện đại nhất chưa chắc đã nhanh hơn chiến thuật rỉ tai của đoàn nữ binh hùng hổ này. Đàn ông ai cũng bận, sau cùng tìm được một “anh ba xị đế” về. Khi cạo gió thân thể đang nóng bừng vì được thoa dầu, bỗng dưng thấy lạnh toát ở xương sống. Quay lại nhìn: hóa ra nước mũi của ông vô tư rơi thánh thót trên lưng mình. Dân ghiền thường bảo: một xị khai môn trí hoá, hai xị giải phá cơn sầu, ba xị mũi chảy đầy râu, bốn xị… Lần khác ông đổ dầu hôi vào ống giác, châm lửa rồi ụp lên lưng, dầu loan ra, lửa bùng cháy bỏng cả lưng. Nhiều khi đau ốm đành âm thầm chịu đựng hoặc nhìn lên trần nhà xem hai con thằn lằn đuổi nhau. Không người thân, chẳng ai thăm hỏi, nằm một mình co rút lại như  “Con chim ẩn mình chờ chết”!

Sau cùng, nỗi cô đơn sẽ đặc quánh khi Lm về già. Nhà hưu nơi có nơi không. Về ở với con cháu, ít ra phải có tí tiền thì họ mới hăm hở nhiệt tình. Khi tiền đã hết, tình cũng bay luôn. Bấy giờ sự chăm sóc trở thành gánh nặng.

Chuyện còn dài nhưng xin “xì tốp” nơi đây bằng vài mẩu chuyện ngắn để ta cho bộ não làm việc một chút cho bỏ tật lười:

1- Đức Giáo Hoàng Piô X, ngay sau khi được tấn phong Giám mục Montava liền khoe chiếc nhẫn GM của mình với mẹ: Mẹ xem chiếc nhẫn có đẹp không?

Bà mẹ bèn giơ chiếc nhẫn cưới trên tay và bảo: Nếu không có chiếc này thì làm gì có chiếc kia.

2- Giáo xứ nọ, giáo dân hay đâm đơn tố cáo cha lên TGM. Đức Cha quyết định đổi ngài đi xứ khác, thay cha mới về. Ngày bàn giao, chính GM cử hành thánh lễ nghinh tân tống cựu. Ngài sắp đặt mọi thứ, không cho hai cha và giáo dân biết. Đến giờ cử hành thánh lễ: cửa mở ra, mọi người bàn tán xì xèo… Thánh lễ xong, trước khi ban phép lành, GM chỉ tay xuống cái quan tài đặt giữa nhà thờ:

– Đây là quan tài của một người mà ai cũng quen biết. Mọi người hãy theo thứ tự tới từ giã lần cuối.

Ai ai cũng ngỡ ngàng… mở to mắt nhìn vào, không thấy xác ai, chỉ thấy một tấm gương to. Từng người đến viếng ai ai cũng thấy chính mình bên trong quan tài.

Khi mọi người đã về chỗ của mình, GM nói lớn: Con người ai cũng phải nằm trong chốn ấy. Sống chung, hòa thuận vui vẻ rồi chết. Tố cáo, kiện tụng, gây chia rẽ bất hòa rồi cũng chết. Ai muốn theo con đường nào tự mình chọn lấy!

Nhìn về phía hàng ghế giáo dân nhấp nhô những bóng khăn chặm nước mắt…

Đời sống LM không phải dễ đi. LM phải đồng hành, sẵn sàng đưa vai vào thập giá cùng vác, chia sớt gánh nặng với Đức Giêsu. Hãy tìm lại những dấu chân, những giọt mồ hôi khi Ngài đi rao giảng. Hãy trả lại cho Ngài những giọt máu hồng tươi khi ta tiếp tay đẩy lưỡi gươm đâm sâu vào cạnh sườn Ngài. Nếu tu là cõi phúc tình [Phan Sinh] cũng là cõi phúc vậy. Chiếc nhẫn trên tay từng người Phan Sinh cũng là chiếc nhẫn tu “LM”. Ở đấng bậc nào cũng tốt, cũng là cõi phúc, miễn ta đi đúng con đường Chúa đã dạy.

Huynh Nguyen


Thánh giá và người nghèo

Tháng Bảy 15, 2010

Khi Cha Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế đặt câu hỏi “Xác định điểm đến của Giáo Hội trong bối cảnh Internet hiện nay” thì có nhiều câu trả lời tưởng là hay lắm, là đúng lắm. Nhưng khi ngài xác định “Điểm đến của Giáo Hội là con người” thì ai cũng “ồ” lên bất ngờ vì câu trả lời chính xác và quả quyết ấy. Câu trả lời tóm gọn tất cả mọi ý kiến khác. Tưởng là đơn giản mà mấy chục con người hôm ấy không ai nghĩ ra được.

Vậy con người là ai? Họ đóng vai trò gì trên cõi đời này và nhân vị là gì mà Giáo Hội phải cất công đi tìm và phục vụ đã hai ngàn năm nay? Có nhiều câu định nghĩa về con người. Nhưng trong viễn tượng ơn cứu độ, Thánh Phaolô quả quyết rằng con người là loài thụ tạo được mời gọi nhận biết chân lý để được cứu. (x.1Tm 2,3-4). Và như vậy, Thánh Giá, nguồn ơn cứu độ, có ý nghĩa quyết định trong nhân vị con người.

Thánh giá Đồng Chiêm bị đập nát, nhưng HĐGMVN vẫn im tiếng

Thánh giá Đồng Chiêm bị đập nát, nhưng HĐGMVN vẫn im tiếng

Nếu định nghĩa kytô hữu là người tin vào Đức Giêsu thì họ là những người ghi dấu Thánh Giá trong tâm hồn mình, làm dấu Thánh Giá trên người mình và có khi đeo Thánh Giá trên ngực mình.

Nhưng nếu định nghĩa kytô hữu là người không những tin nhưng còn là gắn bó và sống chết cho Đức Giêsu Kytô thì họ là những người bảo vệ Thánh Giá. Họ không bước qua Thánh Giá và đồng thời cũng quyết liệt ngăn chặn không cho phép bất cứ một kẻ ngang ngược xấc láo nào bước qua Thánh Giá là bảo vật của phần nhân loại được cứu độ.

Vậy tại sao lại có khái niệm bảo vệ Thánh Giá? Chẳng ai nghĩ đến việc bảo vệ mặt trời hay những vì sao trên bầu trời mênh mông kia, bởi vì những tinh tú ấy rực rỡ quá và ở xa xôi quá. Thánh Giá là cây gỗ uy nghi, quyền năng và rực rỡ, còn rực rỡ hơn muôn vì tinh tú, còn tồn tại muôn đời và có quyền năng mà không tinh tú nào sánh kịp. Vậy tại sao lại cần bảo vệ?

Bảo vệ Thánh Giá hoàn toàn không có nghĩa là giữ cho Thánh Giá khỏi bị phá hoại, khỏi bị cướp mất. Làm gì có chuyện đó. Khi con người gian tà giương Thánh Giá lên để hạ nhục Đức Giêsu thì họ bàng hoàng nhận ra nhờ Tình Yêu Giêsu mà Thánh Giá huy hoàng lộng lẫy vô cùng. Và sau đó là những nỗ lực triệt hạ Thánh Giá. Không bao giờ có thể hạ Thánh Giá Chúa xuống. Không bao giờ và không ai có thể.

Nhưng bảo vệ Thánh Giá chính là giữ không cho thế gian điêu ngoa láo xược nhạo báng Thánh Giá Đấng Cứu thế. Bảo vệ Thánh Giá là giữ cho mối dây hiệp thông mà Thánh Giá mang đến không bị bạo quyền cắt đứt. Bảo vệ Thánh Giá còn là cúi xuống bảo vệ những người nghèo, người bị áp bức là đối tượng của ơn cứu độ.

Vâng, những mục tử và giáo dân dám đứng lên bảo vệ Thánh Giá Chúa thì cũng can đảm bảo vệ người nghèo khổ. Còn những vị “nũng nịu” với quyền lực, không lên tiếng bảo vệ Thánh Giá khi Thánh Giá bị đập phá, thì họ cũng câm lặng trước nỗi đau của đàn chiên mình. Dù chiên có chết thì mục tử cũng im lặng đến khó hiểu!

Hôm nay ngày 13/7, nhiều giáo xứ có Thánh Lễ kỷ niệm Mẹ hiện ra ở Fatima. Và chắc chắn nhiều tâm hồn tín hữu cũng bồi hồi nhớ đến Đức Tổng Giám Mục Hà nội Giuse Ngô Quang Kiệt. Ngài từ giã dân Chúa Việt nam vừa đúng hai tháng. Ngài đi vào ngày 13/5, cũng ngày kỷ niệm Mẹ Fatima.

Không biết có phải là sự trùng hợp bất ngờ hay không mà hôm nay, khi chúng ta nhớ đến ngài thì đồng thời trang mạng tin tức Yahoo cũng đưa tin “Cơn mưa lớn sáng nay đã gây úng ngập trên nhiều tuyến phố”.

Hà nội ngập không còn là chuyện lạ. Nhưng hình ảnh đặc biệt của một chủ chăn lội nước đồng sinh đồng tử với dân thì chắc sẽ chẳng còn thấy lại nữa. Mà nếu có ai bắt chước Đức Tổng Giuse để chụp hình quay phim thì người dân cũng nhận biết ngay ai là người yêu thương dân và ai là người yêu ống kính truyền hình!

Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt chống gậy thăm nhân dân bị lụt năm 2008

Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt chống gậy thăm nhân dân bị lụt năm 2008

Chẳng lẽ đúng như nhận định của Linh mục William Grimm của UCAN: “Thật ra mà nói chúng ta thiếu lãnh đạo (…) cái thời mà người bên trong và ngoài Giáo hội kỳ vọng vào các lãnh đạo Công giáo Á châu đã qua rồi.” (Thời đại của những con người phi thường đã qua, www.ucanews.com).

Cha William Grimm nhận xét về những con người phi thường ấy:  Các lãnh đạo chính trị và tôn giáo không thể lôi kéo các ngài ra khỏi việc ưu tiên Nước Thiên Chúa dành cho người nghèo trong suy nghĩ, lời nói và hành động của mình.” Đọc những lời này, chúng ta không nghẹn ngào nhớ Đức Tổng Giuse sao? Lạy Chúa, con muốn khóc lên được.

Khi chủ chăn xác định điểm đến của Giáo Hội là con người thì trong mọi hoàn cảnh và qua mọi biến cố, chủ chăn chỉ chăm lo cho con người mà bất chấp mọi nghịch cảnh. Và khi ấy, dù có bị nắm chuôi nắm lưỡi, thì vị mục tử cũng sẵn sàng bảo vệ Thánh Giá và bảo vệ con người. Vị mục tử sẽ nhớ lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: “Đừng sợ làm chứng cho phẩm giá của mỗi con người”.

Để kết luận, người viết xin phép trích một đoạn trong một bài viết trên www.nuvuongcongly.net kể một câu chuyện cảm động như sau:

“Nhân đây cũng xin kể lại câu chuyện của một linh mục Ba Lan trước đây để những ai trót dính thòng lọng lấy làm kinh nghiệm:

Khi phong trào xuống đường biểu tình nổ ra rầm rộ ở BaLan đe dọa chế độ CS, một linh mục có tiếng là đứng về phía dân nghèo và lên án bất công rất được chú ý của mật vụ. Một kế hoạch của công nhân là sáng thứ 2 sẽ xuống đường biểu tình, mệnh lệnh cấp trên của công an được đưa ra là vị linh mục này phải kêu gọi giáo dân không xuống đường thì may ra mới gỡ được tình thế.

Một nhân viên an ninh được phái đến để “làm việc” với vị linh mục.

Vị linh mục sau khi nhận được yêu cầu: “Sau Thánh lễ ngày mai phải đọc văn bản kêu gọi mọi người không xuống đường do công an viết sẵn”. Vị linh mục phản ứng: “Không đời nào tôi đọc văn bản này”. Viên mật vụ nói: “Ông phải đọc nó sau thánh lễ ngày mai” và cáo từ ra về.

Trước khi ra về, như vô tình, viên mật vụ giơ ra tấm ảnh một phụ nữ bế một cháu bé và hỏi: “Chắc ông biết người này?”. Vị linh mục tái mặt.

Chiều hôm sau, sau Thánh lễ, nhiều mật vụ đứng chờ vị linh mục đọc lời kêu gọi chống xuống đường. Vị linh mục mời tất cả mọi người an tọa và thông báo: “Tôi có một sai lầm của thời thanh niên đã qua, ngày nay, mật vụ căn cứ vào đó để ép tôi hợp tác và đọc lời kêu gọi không xuống đường vào ngày mai. Tôi kêu gọi tất cả mọi người xuống đường biểu tình vào ngày mai, hôm nay cũng là thánh lễ cuối cùng của tôi ở đây và cho tôi xin lỗi tất cả giáo dân về những sai lầm của tôi”.

Cả nhà thờ từ im lặng đến ồn ào như ong vỡ tổ, và tất cả giáo dân đề nghị vị linh mục ở lại với họ, ngày mai tất cả sẽ xuống đường.

Vậy đó, Thiên Chúa hiểu con người mỏng dòn yếu đuối, Người giàu lòng yêu thương tha thứ, nhưng nếu không có sự sám hối, thì mọi sự che đậy đều trở nên vô ích mà thôi. Ngược lại, khi có sự sám hối thành tâm, từ kẻ thù nghịch với Chúa cũng trở nên đấng Thánh.”

Gioan Lê Quang Vinh